Hôm 14/3, giáo sư Diana Hicks, chủ tịch Trường Công nghệ Chính sách công thuộc Viện Công nghệ Georgia nhận định khoảng cách về khoa học-công nghệ giữa Mỹ và nhiều nước châu Á đang thu hẹp dần. Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Singapo và Ấn Độ đang trở thành những đối thủ đáng gờm của Mỹ trong tương lai. Một tín hiệu đáng mừng cho các nước châu Á!
Cây tre và âm dương - Biểu tượng đặc trưng của châu Á được lấy làm logo cho một hội khoa học - kỹ thuật các nước Đông Á
Trong khi đó, Bà Hicks Hicks, thành viên Nhóm Hành động vì Tương lai Đổi mới Mỹ đã đưa ra một số minh chứng xu hướng phát triển nghiên cứu khoa học của châu Á và ảnh hưởng của nó đối với nền giáo dục và công nghiệp Mỹ. Những căn cứ mà bà Hicks Hicks nêu ra là: nguồn nhân lực, chi tiêu cho nghiên cứu, số lương bằng sáng chế, số lượng báo chí khoa học chuyên ngành… ở châu Á. Tất cả những thứ đó đều đang tăng nhanh!
Theo bà Hicks, về nhân lực, trong thời gian qua, số các nhà nghiên cứu ở châu Á tăng nhanh, đã có thêm nhiều người châu Á, đặc biệt là người Trung Quốc có bằng tiến sỹ. Trong khi đó, số công dân Hoa Kỳ học bằng tiến sỹ đang giảm. Ngoài ra, lượng sinh viên châu Á theo học tiến sỹ ở Mỹ giảm 19% chỉ trong bốn năm từ 1994 đến 1998. Điều này ảnh hưởng đến Mỹ vì lượng sinh viên nước ngoài theo học tiến sỹ tại Mỹ bổ sung vào đội ngũ sinh viên khoa học công nghệ vốn khan hiếm ở Mỹ. Sinh viên nước ngoài cũng thường ở lại Mỹ làm công viện nghiên cứu, tăng thêm kiến thức nền tảng của nước này.
Trong khi đó, cùng với việc giảm nguồn nhân lực châu Á đến học tập và làm việc ở Mỹ, người ta cũng thấy từ 1995 đến 2001, chi tiêu cho nghiên cứu và phát triển ở Trung Quốc và Hàn Quốc tăng 140%. Thế nhưng, đầu tư của Mỹ cho nghiên cứu và phát triển chỉ tăng 34%, đáng chú ý là 68% tổng khoản chi cho nghiên cứu và phát triển do tư nhân tài trợ trong đó gần ¾ khoản tiền này dành sử dụng cho phát triển chứ không phải nghiên cứu cơ bản. (Ở Mỹ, ngành tư nhân có vai trò tài trợ cho nghiên cứu cơ bản, tài trợ của liên bang cho kỹ thuật và vật lý chỉ tăng chút đỉnh trong 30 năm qua). Trong khi đó, nghiên cứu cơ bản rất quan trọng bởi vì nó hỗ trợ thiết lập thế hệ công nghệ mới cho đất nước, bổ sung lượng bằng phát minh, sáng chế. Điều kỳ lạ, kể từ năm 1988, phát minh có nguồn gốc từ châu Á xin cấp bằng sáng chế tại Mỹ tăng 789%. Còn số lượng đơn xin cấp bằng sáng chế của Mỹ tăng rất chậm, khoảng 116%.
Cây tre và âm dương - Biểu tượng đặc trưng của châu Á được lấy làm logo cho một hội khoa học - kỹ thuật các nước Đông Á
Những nghiên cứu của bà Hicks chỉ ra là, cùng với những biến động về nhân lực, chi tiêu cho nghiên cứu, số lượng bằng sáng chế… thì châu Á cũng đang tăng nhanh thị phần báo chí khoa học chuyên ngành. Từ cuối thập niên 90, số lượng các báo chí khoa học xuất bản ở Mỹ giảm dần. Thị phần báo khoa học - công nghệ của Mỹ trên toàn cầu giảm từ 38% năm 1988 xuống còn 31% năm 2001, trong khi đó báo chí khoa học của châu Âu và châu Á tăng vùn vụt. Năm 2001, báo chí khoa học Tây Âu đã chiếm 36% thị phần toàn cầu và hiện chiếm ưu thế hơn so với báo Mỹ, còn lượng báo chí khoa học châu Á tăng từ 11% lên 17% từ 1988 đến 2001. Mặt khác, các nước châu Á đang nỗ lực hợp tác với nhau trong lĩnh vực báo chí khoa học.
Về phần mình, GS Diana Hicks nhận định lượng báo chí khoa học vốn là thước đo của nền tảng kiến thức chính là dấu hiệu cho thấy một đất nước có đội ngũ nhân lực lành nghề cung cấp kiến thức cần thiết cho những ứng dụng sau này. Đây là dấu hiệu nữa cho thấy nền khoa học công nghệ Mỹ dường như kém quan trọng hơn, vị thế đứng đầu của Mỹ đang sụt giảm.
Kết luận cuối cùng mà GS Diana Hicks đưa ra là, nếu các quốc gia châu Á và châu Âu tăng cường khả năng khoa học nhanh hơn, các nước này sẽ vượt Mỹ. Mặc dù hiện nay các nhà nghiên cứu Mỹ nỗ lực hơn các thế hệ trước, họ cũng khó có thể chiếm được vị trí thống trị trong thế giới khoa học như những bậc tiền bối. Song trên thực tế, xu hướng này phát triển chậm và khó nhận ra từ trong lòng nước Mỹ. Hiện Mỹ vẫn là nước có khả năng cạnh tranh cao.
(Theo Viện Công nghệ Georgia (Hoa Kỳ)/Trung Hoa nhật báo/Tân Hoa Xã)