YÊU CẦU KỸ THUẬT
Về kỹ thuật, dựng phim thuần túy là công việc ráp nối các cảnh quay theo thứ tự kịch bản – những thứ tự đã được đánh số [2] trong lúc quay. Ngoài chức năng sắp xếp đó ra, giá trị của dựng phim còn ở chỗ nó cho phép thực hiện ba hiệu quả chính yếu của điện ảnh mà thông thường là chức năng của máy quay : 1) Nhìn sự vật khi xa khi gần qua việc kết nối nhiều cỡ cảnh khác nhau. 2) Di chuyển theo nhân vật qua các bối cảnh khác nhau. 3) Cho khán giả thấy đan xen cùng lúc nhiều tình huống khác nhau, xảy ra trong nhiều địa điểm khác nhau.
Sau khi xem toàn bộ bản nháp trên màn ảnh lớn và bàn dựng, đạo diễn, chuyên viên dựng phim và thư ký – người ghi nhớ số cảnh – sẽ chọn ra mỗi nội dung cảnh một cú quay tốt nhất để sử dụng. Bằng một máy cắt-dán chuyên dụng người dựng phim sau đó sẽ ráp chúng lại theo trình tự phân cảnh với độ dài chưa cắt xén. Bản phim với những mối nối đầu tiên có tên là bản sơ dựng. Từ bản sơ dựng này hay còn gọi là bản dựng nháp, đạo diễn và người dựng phim sẽ xem đi, xem lại, xem tới, xem lui nhiều lần nữa để hoán vị, cắt xén, thêm thắt, vứt bỏ… cho đến khi bản phim có một nhịp điệu hợp lý và mạch lạc. Cũng giống như tính từ lưu loát trong văn học, chuyên môn điện ảnh hay dùng chữ « ngọt » để diễn tả sự ráp nối trôi chảy.
Muốn tạo cảm giác « ngọt » người dựng phim phải gia công rất lớn trong quá trình ráp cảnh, sao cho mọi động tác – máy quay lẫn diễn viên – được chuyển giao êm ái. Thí dụ cảnh toàn nhân vật được cắt khi bước xong chân phải, thì cảnh cận kế tiếp phải bước chân trái theo đúng nhịp thực tế. Một đoạn phim dựng « ngọt » sẽ khiến người xem cảm giác máy quay không ngừng nghỉ, dù thực tế các cảnh gắn nhau bởi nhiều mối nối. Hiệu quả « ngọt » còn được áp dụng để che dấu cái giả của kỹ xảo. Koulechov – bậc thầy dựng phim Nga – cho rằng montage “ngọt” là khi các khung hình được nối khớp nhau như những cục gạch trong xây dựng. Còn đạo diễn Mỹ Spike Jonze thì ca ngợi montage như sau : « Có một nghịch lý thú vị trong điện ảnh là : cấu trúc phim không ngừng tiến hóa qua những nhảy cóc thời gian, bối cảnh, nhân vật, ý tưởng… Nhưng chính sự tự do hoàn toàn của nghệ thuật montage lại làm nên mối liên kết vô cùng chặt chẽ »
Ráp-nối là công việc khá chi li, đòi hỏi người dựng phim phải có chuyên môn cao, thành thạo máy móc, thông suốt các quy tắc dựng : ví như không được sai trục, không được xếp liên tiếp những khung hình cùng nội dung nhưng có cùng góc máy và kích cỡ tương tự. Người dựng phim phải nhạy cảm trước những thừa, thiếu dù chỉ dăm ba khung hình [3]. Khán giả bình thường không nhận biết những mẩu thừa như thế, nhưng với giới chuyên môn các mẩu dư be bé kia bị xem là “ rác” cần vứt bỏ.
Người dựng phim không chỉ chịu trách nhiệm hình ảnh mà phải xử lý luôn phần tiếng. Với các phim âm thanh đồng bộ, việc dựng hình và tiếng sẽ diễn ra cùng lúc, căn cứ theo ký hiệu « khớp » được ghi dấu trong lúc quay. Điện ảnh ta vẫn lồng tiếng nên người dựng phim phải ổn định hình xong mới ráp tiếng. Quy trình này (sẽ trở lại trong mục Lồng tiếng) dĩ nhiên khổ nhọc hơn bởi tiếng của ta là tiếng tái tạo luôn có nguy cơ trật khớp. Là chuyên viên kỹ thuật, người dựng phim bên cạnh tư duy trí não nhất thiết phải biết sử dụng bàn dựng [4] – chiếc bàn lớn bên trên có màn ảnh, vĩ lắp phim, vĩ lắp tiếng, loa, móc, máy cắt-dán.… Qua điều khiển của người dựng phim, hình và tiếng sẽ sánh đôi chạy lui chạy tới nhờ các trụ răng trên máy và các lỗ răng trên phim. Tuy nhiên để phòng xa sự trôi trượt, người dựng phim thi thoảng phải dùng bút mỡ ghi dấu « khớp » trên phim và trên các băng tiếng để túm « các em » khi có hiện tượng sai khớp. Trong điều kiện lồng tiếng của ta việc lắp khớp âm thanh vô hình ảnh rất cực, nhưng kết quả rất… tương đối.
HIỆU QUẢ NGHỆ THUẬT
Trong quá trình cắt nối, thêm bớt, đổi thay vị trí hình ảnh… những người làm phim bỗng nhận ra rằng mỗi sự điều chỉnh sẽ cho ra một hiệu quả khác, một cảm xúc, ý nghĩa khác… Về “phép lạ ” này đạo diễn Pháp Bruno Dumont nói : “ Có thể giải thích tầm quan trọng của montage như sau : chúng ta quay những mẩu phim vô tích sự, nhưng chúng sẽ trở nên cái gì đó khi nối lại với nhau ”. Từ những phát hiện đó người ta bắt đầu chủ tâm nghiên cứu, và thực tế cho thấy mỗi mối nối tiềm ẩn trong nó một xung lực to lớn mà các nhà điện ảnh mãi mãi không thể nào khai thác hết. Cứ thế dựng phim trở thành nghệ thuật, trở thành “sân chơi ” hấp dẫn - đôi khi là thôi miên - của người dựng phim, của các đạo diễn. Ngày nay người ta không còn thích kiểu dựng trôi chảy mà tìm kiếm cá tính, thậm chí cố ý gây sốc.
Dựng phim với tư cách nghệ thuật tạo ra rất nhiều hiệu quả, có thể kể các hiệu quả chính :
Tiết tấu
Là hiệu quả hàng đầu và đích nhắm của dựng phim. Tiết tấu điện ảnh được làm nên bởi độ dài các cảnh mà trong đó mọi sự thừa - thiếu đều ảnh hưởng chất lượng. Tiết tấu dựng phim không có nghĩa thu ngắn thời lượng mà là sự xen xếp các cảnh sao cho xúc cảm dâng cao nhất, lô-gích nhất. Ví như trong phim có trường đoạn hai kẻ rượt đuổi nhau 2 phút. Thay vì chia trường đoạn ra hai cảnh : kẻ rượt 1 phút, kẻ chạy 1 phút, người dựng phim có thể cắt mỗi cảnh làm đôi (hoặc hơn), xếp luân phiên theo thứ tự : kẻ rượt 30 giây, kẻ chạy 30 giây, lại kẻ rượt 30 giây, kẻ chạy 30 giây… Trường đoạn vẫn 2 phút nhưng sự ngắt khúc, xen kẽ khiến ta có cảm giác nhịp điệu nhanh hơn, không khí quyết liệt hơn.
Nhưng ngược lại, với những nội dung thong dong thì sự cắt ngắn vô lối sẽ làm hại tinh thần phân đoạn. Thí dụ trong phim có đoạn chàng đau đớn ngồi nghe “em” hát tình ca năm cũ. Nếu cứ xen cắt chàng-em lụp bụp kiểu hai chàng rượt đuổi thì còn chi cảm xúc, ngậm ngùi…? Trong mọi trường hợp nghệ thuật montage đòi hỏi đạo diễn, người dựng phim phải biết « đo » cảm xúc khi quyết định lưỡi kéo [5]. Dựng phim không có chuẩn đích xác cho độ dài các cảnh, một tiết tấu hợp lý phải được cảm bởi người sáng tác, phải tương thích với cảnh huống, với tâm lý nhân vật và cuối cùng, quan trọng, lớn lao hơn : tương thích với toàn thể phong cách bộ phim.
Để có một tiết tấu hợp lý người đạo diễn đôi khi phải biết « hy sinh ” những cảnh lạc cảm xúc. Nói hy sinh bởi mỗi cảnh phim được làm nên với bao công sức nên đạo diễn rất khó từ bỏ. Thời đi học người viết đã một lần « khó » như vậy : khi trình chiếu phim truyện bài khóa trong đó có cảnh dừa nước dưới bình minh rất đẹp, thày bỗng hỏi : « Tại sao để cảnh này vô đây ? ». « Tại nó đẹp, em rất thích » Cô học trò hăng hái. Thày bảo : « Nếu rất thích thì cất vô vali làm kỷ niệm, còn ở đây nó phá hỏng kịch tính ». Học trò ấm ức tuân theo để sau đó ngộ ra bài học montage hữu ích : một cảnh không cộng thêm gì cho hiệu quả tức nó sẽ… trừ. Nói cách khác : một cảnh lấy cũng được, vứt cũng được thì tốt nhất nên vứt.
Những gì đang nói có vẻ như tiết tấu chỉ được xử lý khi dựng phim, nhưng thực ra nhà biên kịch chuyên nghiệp đã phải lưu tâm đến nó từ trên giấy, qua cách ngắt câu, chấm, phết, số lượng chữ… Sau đó, hai lần nữa, trên phân cảnh và trong lúc quay đạo diễn sẽ tiếp tục mường tượng nó. Dựng phim chỉ là cung đoạn hoàn tất và… cứu vãn.